Nụ cười của Người Đại tướng trong lòng dân

Chẳng ai có thể biết trước rằng, cũng vào một ngày tháng Tám nhiều năm về trước, một vị anh hùng của dân tộc đã được sinh ra. Ngày 25/8/1911, tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cậu bé Võ Giáp ra đời. Đó là tên khai sinh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người đã cống hiến cả cuộc đời cho Cách mạng Việt Nam, đất nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, yêu nước, ông nội, ông ngoại Đại tướng đều từng tham gia phò tá vua Hàm Nghi trong Phong trào Cần Vương, ông từ sớm đã có tư tưởng đứng lên chống Pháp bảo vệ non sông. 
 
Năm 1925 đến 1926, chỉ mới 14,15 tuổi, ông đã tham gia các phòng trào học sinh ở Huế. Năm 16 tuổi, năm 1927, ông tham gia Đảng Tân Việt cách mạng (một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Năm 1930, ông bị địch bắt và kết án hai năm tù. Sau khi ra tù, ông tiếp tục hoạt động tuyên truyền, gây cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh. Năm 1936, đồng chí hoạt động trong phong trào dân chủ bán hợp pháp của Đảng ở Hà Nội; là biên tập viên các báo của Đảng: Báo Lao động, Báo Tiếng nói chúng ta, Báo Tiến lên, Thời báo Cờ Giải phóng... Đồng chí được cử làm Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ. Tháng 6 năm 1940, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được Đảng cử sang nước ngoài gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc. 
 
Năm 1941, Võ Nguyên Giáp về nước, tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng. Tháng 12 năm 1944, ông được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Tháng 4-1945, tại Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ, ông được cử vào Ủy ban Quân sự Bắc Kỳ. Từ tháng 5-1945, ông là Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới, thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân; tháng 6-1945, ông được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng.
(Ảnh chụp Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1930)
Tháng 8-1945, đồng chí được cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, đồng chí được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam; là Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được bổ sung vào Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
 
Tháng 3-1946, ông là Chủ tịch Quân sự, Ủy viên trong Chính phủ Liên hiệp; khi thành lập Quân ủy Trung ương, được cử làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Tháng 10-1946, là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng Chỉ huy Quân đội Nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam. Tháng 01-1948, khi mới 37 tuổi, ông được phong quân hàm Đại tướng, trở thành vị Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh tối cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
 
Tháng 2-1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Từ tháng 9-1955 đến tháng 12-1979, ông Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
(Ảnh chụp Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1957)
Tháng 9-1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, ông được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương; được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Tháng 12-1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, ông được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương; được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V và lần thứ VI của Đảng, ông được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương.Từ tháng 1-1980, ông là Phó Thủ tướng thường trực; từ tháng 4-1981 đến tháng 12-1986, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ). Ông liên tục được bầu làm Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.
 
Với công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, uy tín lớn trong và ngoài nước, ông đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
 
Khi điểm lại những nét chính trong cuộc đời của vị Đại tướng vĩ đại nhất trong lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, chúng ta không khỏi kính phục trước những cống hiến của ông trong sự nghiệp Cách mạng của dân tộc. Chúng ta lại càng kính phục hơn nữa đức độ của ông trong cuộc sống đời thường. Về nụ cười luôn nở trên môi của ông. 
 
(Ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
Và Bác Hồ chính là người đã tặng nụ cười đó cho anh Văn (tên bí danh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp). Anh Văn vốn có vẻ mặt nghiêm nghị, khiến một số người mới gặp phải e ngại. Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, anh Văn làm việc ở Bắc Bộ Phủ, Một hôm, Bác nhìn anh, rồi hỏi: "Sao chú Văn lúc nào cũng có vẻ mặt như đang giận ai?".
 
Lời nhắc nhở ý nhị đó của Bác đã khiến anh Văn thấy mình cần thay đổi. Từ đó anh Văn hay cười. Nụ cười góp phần giúp cho những buổi làm việc rất có hiệu quả hơn.
Ảnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp tại Sở chỉ huy Chiến dịch Biên giới (1950)
Và nụ cười của ông đã trở thành một tấm gương sáng cho cả những thế hệ sau này. TS Nguyễn Văn Khải - Nhà giáo, nhà khoa học – đã coi Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người thầy giáo mẫu mực của mình dù chưa từng được Đại tướng dạy ngày nào. Và một trong số những bài học tâm đắc chính là từ nụ cười của ông. TS Nguyễn Văn Khải chia sẻ về tinh thần học tập của mình: “Cho đến giờ tôi có thể tự hào mình là thầy giáo tốt, được nhiều học trò yêu quý vì tôi đã học được ở bác Giáp một điều, đó là nụ cười. Hiếm có một vị tướng nào mà hầu hết tất cả các bức ảnh ghi lại đều đang cười với mọi người. Đấy là điều tôi học suốt cả quãng đời này. Đây cũng là điều không phải ai cũng hiểu”.
Nụ cười của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khiến ông trở nên gần gũi hơn với người dân và là một hình ảnh được người dân Việt Nam yêu mến. Nụ cười ấy cũng khiến nhiều nhà báo nước ngoài có cơ hội phỏng vấn ông nể phục và có ấn tượng sâu sắc.
 
Nhà báo Cuba Martin Hacthoun từng là phóng viên thường trú của hãng thông tấn Prensa Latina tại Ấn Độ, Syria và Việt Nam. Trong thời gian làm việc tại Việt Nam từ năm 2006 đến 2007, ông có dịp phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cuộc gặp này đã để lại cho ông những ấn tượng sâu đậm. Khi được hỏi điều gì khiến ông ấn tượng nhất ở vị tướng được ví như “người anh cả” của Quân đội nhân dân Việt Nam, ông nói: "Tôi còn nhớ nụ cười của Đại tướng, không phải là nụ cười của một vị tướng mà là nụ cười của một con người vẫn biết vui với đời, mặc dù tuổi đã rất cao. Nụ cười của ông sẽ luôn lưu lại trong tâm trí tôi".
 
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, một phóng viên người Pháp đã phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp về sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam trước sự leo thang của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Nở những nụ cười tươi rói, tướng Giáp trao đổi với vị phóng viên này bằng vốn tiếng Pháp hết sức nhuần nhuyễn, phong thái tự tin. Xem đoạn phỏng vấn, chúng ta thấy được bản lĩnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ (khoảng 1964) khi trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp, một phong thái tự tại và nụ cười tươi hiển hiện trên gương mặt của Đại tướng khi ông trả lời câu hỏi. (https://www.youtube.com/watch?v=SPY3XrYUXCE)
 
Trong một cuộc phỏng vấn khác vào năm 1991, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã bật cười khi phóng viên Pháp xin phỏng vấn ông một câu cuối cùng, vì các phóng viên trẻ lúc nào cũng nói là đặt câu hỏi cuối cùng nhưng rồi không phải. Hình ảnh một vị Đại tướng vừa có phong thái hơn người, vừa rất hài hước, gần gũi khiến cho bầu không khí của cuộc phỏng vấn trở nên thoải mái.
 
Nhân 110 năm kỷ niệm ngày sinh của Đại tướng (25/8/1911-25/8/2021), chúng ta hãy cùng ôn lại những kỷ niệm về Đại tướng, và nhớ mãi trong tâm trí của mỗi người về nụ cười sáng ngời, nhân hậu, về người học trò xuất sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh, về con người đã làm nên những chiến thắng lịch sử của dân tộc Việt Nam. 
Ảnh tư liệu
Đinh Quỳnh Mây
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật